Lạm phát đang trở thành mối lo ngại lớn nhất đối với
nền kinh tế trong năm 2022, khi Việt Nam “vừa ốm dậy” sau 2 năm bị tàn
phá bởi dịch bệnh, nhu cầu đầu tư tái thiết rất lớn mà lại gặp phải
những biến động không thể tiên liệu trong quan hệ quốc tế. Nhận diện thế
nào về lạm phát và làm sao để ứng phó trong một năm cần thúc đẩy tăng
trưởng mạnh mẽ là vấn đề đang được thảo luận rộng rãi. Tạp chí Đầu tư
Tài chính đã có cuộc trao đổi với PGS.TS Phạm Thế Anh – Trưởng bộ môn
Kinh tế vĩ mô, Trường Đại học Kinh tế Quốc dân xung quanh chủ đề này:
- Từ một nguy cơ, lạm phát đã hiện hữu, ông nhận diện lạm phát năm nay như thế nào?
PGS.TS Phạm Thế Anh: Hiện nay, bối cảnh thế giới
tương đối bất ổn, đặc biệt chiến sự Nga – Ukraine là điều nằm ngoài tiên
liệu, tạo nên cú sốc đột ngột với kinh tế toàn cầu. Việt Nam là nền
kinh tế có độ mở rất lớn, gần 200% GDP, nên chịu tác động rất lớn. Có
thể thấy lạm phát của Việt Nam cũng giống như các nước trên thế giới,
chủ yếu do sự gia tăng của giá nguyên vật liệu đầu vào (điển hình là
xăng dầu) và tắc nghẽn chuỗi cung ứng (do các lệnh trừng phạt kinh tế
giữa các nước lớn và bệnh dịch), tức nguyên nhân đến từ phía cung. Phía
cầu cũng có tác động, song không lớn, do sức mua của người dân hiện còn
yếu.
Doanh nghiệp hiện đang gặp bài toán khó: muốn tăng quy mô sản xuất
nhưng lại thiếu vốn và hụt lao động, muốn đưa ra sản phẩm giá tốt để
kích thích tiêu dùng nhưng lại gặp bão chi phí đầu vào. Để có lao động,
doanh nghiệp phải tăng lương để thu hút, nhưng tăng lương lại làm tăng
chi phí sản xuất, chi phí tăng thì giá bán tăng, tạo nên một vòng xoáy
giá.
- Vậy làm sao để xử lý vấn đề lạm phát?
Chính sách tiền tệ bây giờ không giúp ích được gì đáng kể, vì hai
nguyên nhân. Một là giá hàng hóa, nguyên vật liệu của Việt Nam liên
thông với giá thế giới. Chính sách tiền tệ của Việt Nam làm sao giải
quyết được tình trạng tăng giá của hàng hóa thế giới?! Hai là chính sách
tiền tệ cũng không xử lý được tình trạng tắc nghẽn chuỗi cung ứng.
Chuỗi cung ứng bị nghẽn do chiến tranh và bệnh dịch, do trừng phạt kinh
tế hay do logistics đình trệ, tức những nguyên nhân nằm ngoài khả năng
chi phối của Việt Nam.
Bây giờ là giai đoạn khởi động, hồi phục của nền kinh tế của Việt
Nam, các doanh nghiệp nhạy cảm như con tôm mới lột vỏ, rất cần môi
trường thuận lợi để cứng cáp trở lại. Mọi quyết định gia tăng sản xuất,
mở rộng đầu tư cũng đều nằm ở lúc này. Nếu phải thắt chặt tiền tệ, tăng
lãi suất để chống lạm phát thì doanh nghiệp sẽ “dính đòn” rất đau khi
vừa chịu chi phí sản xuất cao, vừa nặng gánh lãi suất, nhất là khi doanh
nghiệp Việt đặc biệt phụ thuộc vốn vay ngân hàng.
Giai đoạn này có thể nói là rất khó cho chính sách tiền tệ, không
khác gì “múa tay trong bị”. Chúng tôi cho rằng bây giờ, chính sách tốt
nhất là cố gắng hạ thuế, phí để giảm chi phí sản xuất, đồng thời cố gắng
giữ lãi suất ổn định càng lâu càng tốt, ít nhất là trong 6 tháng đầu
năm. Tuy nhiên, Chính phủ cũng phải chuẩn bị sẵn sàng cho kịch bản xấu.
Điều quan trọng là thông điệp Chính phủ truyền đi cho thị trường phải
rất rõ ràng, đó là Chính phủ sẽ can thiệp ngay khi lạm phát trượt khỏi
mục tiêu kiểm soát (4%), còn khi chưa trượt khỏi giới hạn này thì không
vội vàng.
Việc kiểm soát cung tiền cũng là một nội dung Chính phủ cần thận
trọng. Thời điểm này nếu bơm tiền quá mạnh, tăng trưởng cung tiền quá
cao thì lạm phát sẽ nhân đôi, vừa lạm phát do chi phí đẩy, vừa lạm phát
tiền tệ, rất nguy hiểm.
Hướng xử lý lạm phát đúng đắn hiện nay là dùng chính sách tài khóa và
chính sách ngành. Ví dụ, xác định nguyên nhân lạm phát đến từ giá
nguyên nhiên liệu, Chính phủ có thể cắt giảm thuế, phí để giảm bớt áp
lực, nói hình ảnh thì không “rút củi đáy nồi” để giảm nhiệt được thì
cũng phải “khuấy cho canh ngừng sôi”. Vừa qua, Chính phủ đã chốt phương
án giảm thuế bảo vệ môi trường đối với xăng, dầu, mỡ nhờn đến hết ngày
31/12/2022, đó là cách làm chính xác để hạ nhiệt giá xăng dầu. Nói thêm
về xăng dầu, chúng tôi cho rằng Chính phủ có thể cân nhắc cắt giảm thêm
một số loại thuế phí khác như: thuế tiêu thụ đặc biệt hay VAT trong năm
nay. Về việc này, ngân sách sẽ không bị thiệt hại nhiều, bởi giá xăng
dầu hợp lý sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tăng cường sản xuất, quy mô
thu thuế tăng lên. Với các hàng hóa đầu vào khác cũng vậy, nếu Chính
phủ có đủ nguồn lực tài khóa thì cũng có thể cân nhắc giảm các loại
thuế, phí liên quan.
Các chính sách ngành thì cần tập trung vào việc tháo gỡ tắc nghẽn
chuỗi cung ứng. Việc lưu thông được hàng hóa sẽ giải quyết được tình
trạng thiếu hụt cục bộ, cắt các đợt tăng giá trong ngắn hạn.
- Với các phân tích trên của ông, có thể thấy rằng thời kỳ lãi suất thấp không còn kéo dài được bao lâu?
Mặt bằng lãi suất năm nay phụ thuộc vào lạm phát. Chúng tôi kỳ vọng
Chính phủ sẽ giữ được lãi suất thấp như hiện nay thêm ít nhất 3 tháng
nữa, bởi 6 tháng đầu năm là thời gian rất quý báu để doanh nghiệp “lại
sức” sau 2 năm ốm yếu vì dịch bệnh, nhất là với các ngành chịu thiệt hại
nặng nề mà đang có cơ hội “phục sinh” như hàng không, du lịch…
Lãi suất thấp sẽ tốt cho doanh nghiệp, song cũng hơn một
lần ông cảnh báo rằng mặt bằng lãi suất thấp sẽ dẫn tới nguy cơ tiền
chảy vào kênh tài sản, gây nên tình trạng bong bóng giá. Và thực tế là
từ năm ngoái tới năm nay, giá các loại tài sản đều tăng chóng mặt?
Lãi suất thấp trong điều kiện sản xuất kinh doanh đình trệ, cộng thêm
áp lực lạm phát, tất yếu sẽ tạo nên tình trạng tăng giá của tài sản,
thậm chí là bong bóng giá, bởi tiền không bao giờ ngủ. Ở đây, chúng ta
phải chấp nhận rằng không có chính sách nào đạt được đồng thời các mục
tiêu lớn, chỉ có thể tùy từng thời điểm mà cân nhắc ưu tiên cho mục tiêu
nào, dựa trên những tính toán và chi phí và lợi ích của chính sách, mục
tiêu đó.
Chúng tôi kiên trì quan điểm muốn huy động tiền vào sản xuất thì
trước hết phải có môi trường kinh doanh tốt, không dùng biện pháp quá
đáng về cách ly, truy vết, để người lao động có thể quay lại làm việc,
chuyên gia nước ngoài nhập cảnh dễ dàng, du khách được đi lại thoải mái ở
các điểm du lịch... Lĩnh vực sản xuất – kinh doanh có lợi suất tốt thì
tiền sẽ tự động rút khỏi các kênh tài sản.
Để kiểm soát tình trạng bong bóng giá, về lâu dài Ngân hàng Nhà nước
phải kiểm soát được tăng trưởng cung tiền một cách chặt chẽ, Chính phủ
phải giảm thiểu được tình trạng thâm hụt ngân sách nặng nề kéo dài.
Ngoài ra, các biện pháp liên quan đến thuế, phí và kiểm soát dòng tiền
đầu cơ cũng có thể được nghiên cứu và áp dụng một cách phù hợp.
- Một số quan điểm cho rằng, năm nay, với việc siết tín
dụng bất động sản và chương trình hỗ trợ phục hồi – phát triển kinh tế
chủ yếu là các gói tài khóa, tăng trưởng tín dụng sẽ không cao như năm
trước. Góc nhìn của ông về vấn đề này như thế nào?
Tín dụng phụ thuộc vào sự hồi phục của nền kinh tế, tức nhu cầu vay
mượn của cộng đồng doanh nghiệp. Với bối cảnh hiện nay, nếu giá nguyên
nhiên liệu cứ tăng, sản xuất hàng hóa gặp khó khăn, xuất khẩu chậm, cầu
tiêu dùng yếu thì tăng trưởng tín dụng sẽ thấp. Nếu lãi suất tăng (tức
lạm phát cao) thì tăng trưởng tín dụng sẽ còn thấp nữa. Chúng tôi nhìn
nhận tín dụng năm nay khó lòng cao hơn năm trước. Song, điều quan trọng
hơn cả là tín dụng phải vào khu vực sản xuất chứ không phải chảy vào
kênh tài sản, dù trực tiếp hay đường vòng.
Chúng tôi khuyến nghị Chính phủ linh hoạt hơn, mạnh dạn hơn trong
việc sử dụng chính sách tài khóa để hỗ trợ chi phí sản xuất cho doanh
nghiệp; sử dụng các chính sách ngành để duy trì sản xuất và khơi thông
chuỗi cung ứng, nhất là những mặt hàng thiết yếu vốn chiếm tỷ trọng lớn
trong rổ hàng tính CPI. Về tiền tệ, Chính phủ cần thận trọng, kiểm soát
tăng trưởng cung tiền ở mức phù hợp, nên thấp hơn năm ngoái, hạn chế can
thiệp hành chính vào lãi suất, để doanh nghiệp nhạy cảm hơn với thị
trường, ra quyết định kinh tế chính xác hơn. Ngoài ra, đầu tư công là
động lực quan trọng phải được thúc đẩy mạnh mẽ hơn, kiểm soát bằng chế
độ báo cáo thường xuyên để nắm bắt tiến độ và tháo gỡ vướng mắc…